CHUYÊN SX CUNG CẤP SỈ LẺ NHÔM THANH KHUNG LỤA - RAY C BÀN IN CÁC LOẠI, PHỤ KIỆN BỌ NHÔM, SẮT. NHẬN GIA CÔNG NHÔM THEO KHUÂN MẪU



LH 0937 655 551 - 0983 994 326



WEDSITE THAM KHẢO: NHÔM KHUNG IN LỤA, RAY C BÀN IN CUNG CẤP SỈ LẺ











================================================== ================================================== ====

Nhôm là gì?

Nhôm là kim khí màu trắng bạc , mềm , nhẹ , độ phản chiếu cao , có tính dẫn nhiệt và dẫn điện cao , không độc , chống mài mòn. Nhôm là kim loại có nhiều thành phần nhất , chiếm 1/12 trong vỏ trái đất. Tuy nhiên , ta không tìm thấy nhôm tinh khiết trong thiên nhiên , chỉ có xác xuất tìm thấy nhôm kết hợp với oxygen và những nguyên tố khác. Trong Chỗ ở nhôm thường được làm gọi là hợp kim nhôm.

Trong số các kim loại , nhôm vượt trội về tính chất cũng như hình thức và nhờ vào kỹ thuật sản xuất làm cho nhôm đắt giá cả cạnh tranh. Nhôm được sử dụng càng ngày càng nhiều trong nhiều ngành , những thị trường lớn như ngành công nghiệp ô tô bắt đầu nhận ra phản ứng chẳng thể so sánh được của nhôm.

2.Tìm nhôm ở đâu và như thế nào?

Quặng Bauxite là nguồn nhôm chủ yếu.

Sau khi lọc , làm mát và kết tủa , hỗn hợp nhôm được lọc một lần nữa trước khi được nung thành bột. Sau thời gian ấy là quá trình chắt , nung và nấu thành thỏi nhôm thuần khiết .

3 .Hợp kim

Trong lò nấu hợp kim , nhôm thỏi được nấu chảy và trộn với kim loại khác như magnesium , silica , đồng… để tạo thành hợp kim nhôm được sử dụng rộng rãi. Thành phần vật lý của hợp kim nhôm này được quyết định bởi các kim khí bên trong nó. Chẳng hạn:

- Hợp kim nhôm + Manganese chống mài mòn cao

- hợp kim nhôm + Magnesium có tính hàn tốt

- hợp kim nhôm + Đồng có tính gia công cao

- hợp kim nhôm + Kẽm có độ bền cao

4.Tính chất

• Khối lượng riêng nhỏ (. 2 , 7g/cm³ ) nên nhôm và hợp kim nhôm chỉ nặng bằng 1/3 thép , đó là thuộc tính đặc biệt được coi trọng khi các thiết bị cần chế tác phải coi trọng đến trọng lượng ( trong ngành quáng dã , vận tải... ).

• Tính chống bào mòn trong khí quyển: Do đặc tính ôxy hoá của nó đã biến lớp bề mặt của nhôm thành ôxít nhôm ( Al2O3 ) rất xít chặt và chống bào mòn cao trong khí quyển , "một năm do đó nó sẽ bị lãng quên" chúng có xác xuất dùng trong đa ngành mà không cần sơn canh gác. Để tăng tính chống ăn mòn , người ta đã làm cho lớp ô xít nhôm bảo vệ dày thêm bằng cách anot hoá.

• Tính dẫn điện: Tính dẫn điện của nhôm bằng 2/3 của đồng ( kim khí ) , nhưng do nhôm nhẹ hơn nên chúng được sử dụng nhiều hơn bởi nếu cùng truyền một dòng điện thì dây nhôm nhẹ hơn bằng 1/2; ít bị nung nóng hơn...

• Tính dẻo: Rất dẻo , nên rất thuận tiện cho việc kéo thành dây , tấm , lá , băng , màng , ép chảy thành các thanh có biên dạng đặc biệt ( dùng cho khung cửa , các loại tản nhiệt...rất thuận lợi khi sản xuất ).

• Nhiệt độ nóng chảy: tự do tương đối thấp nên thuận lợi cho việc nấu chảy khi đúc , nhưng cũng làm nhôm và hợp kim nhôm không sử dụng được ở nhiệt độ cao hơn 300-400 độ C.

• Độ bền , độ cứng: Thấp.

5.Phân loại

Hợp kim nhôm biến dạng

Được chia làm hai loại là hợp kim nhôm biến dạng hoá bền được bằng nhiệt luyện và hợp kim nhôm biến dạng không hoá bền được bằng nhiệt luyện. Có một số vận dụng sau:

• Nhôm thương phẩm ( >99 , 0% ):

o Dùng trong công nghiệp hoá học , thực phẩm , đông lạnh , làm thùng chứa ( AA1060 )

o Dùng làm dây cáp điện ( dây trần hoặc dây bọc ): AA1350

Tạp chất có hại trong nhôm sạch bao gồm: Fe , Si tạo lên các pha giòn FeAl3

• Hợp kim Al-Mn

• Hợp kim Al-Mg

Hợp kim nhôm đúc

• Hợp kim Al-Si ( Silumin )

• Hợp kim Al-Si-Mg( Cu )

Là các loại hợp kim với khoảng Si rộng ( 5-20% ) và có thêm Mg ( 0 , 3-0 , 5% ) để tạo pha hoá bền Mg2Si nên các hệ Al-Si-Mg phải qua hoá bền.

Cho thêm Cu ( 3-5% ) vào hệ Al-Si-Mg để cải thiện cơ tính và có tính đúc tốt do có các thành phần nông dân gần với cùng tin Al-Si-Cu nên được sử dụng trong đúc piston ( AA390.0 ) , nắp máy của động cơ đốt trong.

hệ thống ký hiệu cho hợp kim nhôm

Để ký hiệu các hợp kim nhôm người ta thường dụng theo hệ thống giao thông phân loại của Hoa Kỳ.

Theo hệ thống phân loại này , các ký tự đi hàng đầu luôn là AA ( tiếng Anh: Aluminum Association )

Các số sau thời gian ấy thường là: ***xx đối với hợp kim nhôm biến dạng , và ***.x đối với hợp kim nhôm cho loại đúc.

Loại biến dạng

• 1***: Nhôm sạch ( >99 , 0% )

• 2***: Al-Cu , Al-Cu-Mg ,

• 3***: Al-Mn

• 4***: Al-Si

• 5***: Al-Mg

• 6***: Al-Mg-Si

• 7***: Al-Zn-Mg , Al-Zn-Mg-Cu

• 8***: Al-các hợp kim khác

Đối với loại đúc:

• 1xx.x: Nhôm sạch dạng thỏi hoặc dạng thương phẩm khác.

• 2xx.x: Al-Cu

• 3xx.x: Al-Si-Mg; Al-Si-Cu

• 4xx.x: Al-Si

• 5xx.x: Al-Mg

• 7xx.x: Al-Zn

• 8xx.x: Al-Sn

( Loại đúc không có 6xx.x )

thời hạn Việt Nam TCVN 1659-75 quy định ký hiệu hợp kim nhôm được bắt đầu bằng Al và tiếp theo tuần tự ký hiệu hoá học của nguyên tố hợp kim cùng chỉ số % của nó , nếu là hợp kim đúc thì sau cùng có chữ Đ ( Ví dụ: AlCu4Mg là hợp kim nhôm chứa 4% Cu , 1%Mg ). Với nhôm sạch ký hiệu bằng Al và chỉ số phần trăm của nó ( ví dụ: Al99; Al99 , 5 )

hỗn tạp kim loại nóng chảy ở 500- 600 độ C được đúc thành cây. Những cây này có thể được cắt thành từng khúc nhỏ theo ý muốn và chúng được đưa đến các nhà máy để định ảnh. Nhôm định hình được ứng dụng rông rãi trong hoàn cảnh sống của chúng tôi như cửa nhôm , khung nhôm , và các phân bố chịu lực khác có tính thẩm mỹ cao.

6. Tính ưu việt của nhôm : “Ăn rắn chắc , mặc bền “ .

- Cách âm , cách nhiệt:

Được làm từ profile nhôm cách nhiệt kết hợp với hộp kính , hệ gioăng chống lão hóa và hệ phụ kiện kim loại đồng bộ , cửa nhôm và vách nhôm kính lớn có tình cảm âm , cách nhiệt cao.

- Chịu lực tốt

Profile nhôm có cầu cách nhiệt là loại vật liệu cao cấp dùng trong sản xuất cửa sổ , cửa đi , vách kính lớn. Hệ có cấu tạo 3 lớp gồm 2 thanh nhôm định hình và cầu cách nhiệt bằng nguyên liệu polymer ở giữa. Thêm vào đó , các rãnh , vách kỹ thuật trong kiến trúc thanh nhôm được tính toán kỹ lưỡng để tạo sống gia cường , kênh thoát nước , khoang trống cách âm cách nhiệt. Với cấu tạo này , thanh profile nhôm có đem động vật âm , cách nhiệt cao và ngh ii hơn nhựa uPVC là tính chịu lực tốt.

- thể hiện ở phân bố kiên cố của các thanh nhôm được làm ra theo tiêu chuẩn quốc tế , có thể chịu được mọi áp lực của gió , bão trên cấp 12. , không bị cong vênh , co ngót , oxi hoá và han gỉ theo thời gian , thích ứng với những điều kiện thời tiết phức tạp ở Việt Nam

- trọng tải nhẹ

Do đặc thù nhôm là vật liệu nhẹ , có độ bền cao , được thiết kế các khoang rỗng cùng với các sống gia cường hợp lý nên việc sử dụng vật liệu này sẽ giảm trọng tải của tuốt công trình hơn hẳn so với vách tường sử dụng các loại vật liệu khác.

- Kinh tế trong sử dụng

Tại các tòa nhà cao tầng có nhiều diện tích vách tiếp kiến trực tiếp với ánh nắng kim ô. Chi phí điện lực cho hệ thống giao thông Hài hòa , thông gió nhằm yên ổn hoàn cảnh khí trời bên trong tòa nhà rất lớn. Sử dụng cửa nhôm hay vách nhôm kính lớn có cầu cách nhiệt với hộp kính cách âm , cách nhiệt làm từ các loại kính như kính phản quang , kính cản nhiệt , kính an toàn...... là giải pháp chính trong việc tiết kiệm điện năng.

Profile nhôm đã được xử lí bề mặt và sơn tĩnh điện với công nghệ tiền tiến nên có độ bền cao , luôn giữ được màu sắc và cấu trúc của cửa ngay trong cả hoàn cảnh thời tiết hà khắc. Ngoài ra cửa nhôm hay vách nhôm kính lớn còn tiện lợi cho gia chủ khi sơn , sửa bởi chỉ lau chùi bình thường là sáng đẹp như mới mà không để ý phải tu tạo , bảo dưỡng định kỳ.

- Tính cảm biết cái đẹp

Cửa nhôm kính rộng , giàu có lịch sự , nối và mở rộng được hôn gian , tạo được tầm nhìn bao quát cho căn phòng.



- Không cháy và không có khí độc : Nhôm không cháy , khi nóng chảy cũng không tạo ra khí độc như nhựa .

hiện tại sự Đa chủng trong thiết kế cửa nhôm và sự phát triển của công nghệ đã tạo cho người sử dụng nhiều áp dụng với cửa nhôm hơn .

- gác canh môi trường

Nhôm được tái sinh với phí tổn ăn nhập. Nó có thể được tái sinh Hai ba lần mà không làm mất đặc tính do vậy phù hợp với sản phẩm bảo vệ môi trường

7.Sơn và xi mạ màu

- Hiệp hội các nhà sản xuất nhôm trang trí Mỹ quy định độ dày lớp xi như sau:

* Không xếp loại ( 0.1 đến 0.3 mili ) dùng trang hoàng trong nhà

* Loại 2 ( 0.4 đến 0.7 mili ) dùng trang hoàng bên trong và bên ngoài nhà , thường chịu được các chất gột rửa

* Loại 1 ( 0.7 đến 1.0 mili ) dùng trang hoàng bên ngoài nhà , đòi hỏi tính canh giữ cao

- Sơn nước và sơn tĩnh điện:

Thành phẩm được sơn nước và sơn tĩnh điện để có ngoài mặt đẹp và bảo vệ khỏi bi( có tác động đến một điều gì đó của mưa acid , ô nhiễm sulfur , nhiễm muối và bị oxide hoá

Có 2 loại dây chuyền sơn: sơn đứng và sơn nằm

mặc dầu có sự khác nhau giữa sơn nước và sơn tĩnh điện , cả hai đều có chung công năng tạo bề mặt đẹp , canh gác khỏi tác hại của môi trường

Cần thẩm tra ngoài mặt và thành phần nông dân của sản phẩm theo những thời hạn sau: độ cứng , độ dẻo , chống trầy xước , chống chất hoá học , chống mài mòn , không ghi bằng phấn , bền màu , độ bóng , chống tia tử ngoại và những phản ứng bảo vệ môi trường khác.

Có 3 loại lớp phủ:

AAMA 603: dùng cho cửa sổ , thời kì là 1 năm

AAMA 605: dùng cho cửa kính , đòi hỏi thời kì lâu hơn , trên 5 năm

ASCA 96: có vẻ ngoài đẹp và dùng trang hoàng đòi hỏi độ bền cao , thường trên 10 năm.

================================================== =================

Nhôm là nguyên tố phổ biến thứ 3 ( sau ôxy và silic ) , và là kim loại phổ quát nhất trong vỏ trái đất. Đến hiện tại , nhôm được sử dụng dồi dào trong đời sống. Nhưng ít người biết rằng nhôm đã có một thời mắc hơn cả vàng bạc , là món đồ xa xỉ của bậc đế vương!



đồ dùng làm từ Nhôm

Nhà viết sử cổ đại Plini Bố có thuật lại một sự kiện lý thú từng xảy ra gần hai mãi mãi về trước. Một hôm , một người lạ đến gặp hoàng đế La Mã Tibêri. Địa ngục đó mang tặng hoàng đế một cái chén do chính mình sản xuất từ một thứ kim loại óng ánh như bạc , nhưng lại rất nhẹ. Người thợ nói rằng , anh ta lấy được thứ kim loại mà chưa ai biết này từ đất sét. Có lẽ Tibêri ít khi nhọc lòng hàm ơn ai , và ông ta cũng là một hoàng đế hời hợt. Sợ rằng , thứ kim loại mới với những thuộc tính tuyệt vời của nó sẽ làm mất hết giá trị của đống vàng và bạc đang cất giữ trong kho , nên vị hoàng đế này đã ra lệnh chém đầu người phát minh và phá tan xưởng của anh ta để từ đấy về sau không còn ai dám sản xuất thứ kim loại “nguy hiểm” ấy nữa.



Đó là chuyện có thật hay chỉ là truyền thuyết - thật khó dạy. Nhưng nói gì thì nói thì “nguy cơ” cũng đã qua khỏi , và tiếc thay , đã qua lâu lắm rồi. Mãi đến thế kỷ XVI , tức thị khoảng một ngàn năm trăm năm về sau , lịch sử của nhôm mới được ghi thêm một trang mới. Vị y sự kiêm nhà vạn vật học đầy nhân tài người Đức là Philip Aureon Teofrat Bombat Fôn Hôhengây ( Philippus Aureolus Theophratus Bombastus Von Hohenheim ) - người đã đi vào lịch sử với biệt danh là Paratxen , đã làm được điều đó. Khi Học hỏi các chất và các khoáng vật khác nhau trong đó có cả các loại phèn , nhà bác học này đã chính xác được rằng , chúng là “muối của một loại đất chứa phèn nào đó” mà thành phần của nó có chứa oxit của một kim loại chưa ai biết; thứ oxit này về sau được làm gọi là đất phèn.



Từ thời cổ xưa người ta đã biết đến các loại phèn mà Paratxen từng quan hoài. Theo xác nhận của nhà viết sử người Hy Lạp là Hêrođot ( sống ở thế kỷ thứ V trước công nguyên ) thì các dân tộc xa xưa đã dùng một loại chất khoáng mà họ làm gọi là “Alumen” , nghĩa là “làm săn sợi” để giữ màu khi nhuộm vải. Chất khoáng này Ấy là phèn.



Vào khoảng thế kỷ thứ VIII - IX , phèn đã được dùng để nhuộm vải , để thuộc da cừu , da dê ở nước Nga cổ xưa. Thời trung thế kỷ , một số xưởng sản xuất phèn đã hoạt động ở châu Âu.

Năm 1754 , nhà hóa học người Đức là Anđrêat Xighizmunđơ Macgrap ( Andreas Sigismund Marggaf ) đã tách được thứ “đất chứa phèn” mà Paratxen đã nói đến từ hai trăm năm trước đó. Phải qua mấy chục năm nữa , nhà bác học người Anh là Hanfri Đêvi ( Humphry Davy ) mới thử tìm cách tách thứ kim loại ẩn náu trong phèn. Năm 1807 , bằng cách điện phân các chất kiềm , ông đã phát Lộ rõ ra natri và kali , nhưng ông chưa phân giải được đất phèn bằng dòng điện như thế. Mấy năm , nhà bác học người Thụy Điển là Iuên Iacop Becxêliut ( Jons Jakob Berxelius ) cũng bắt tay vào những cuộc thử nghiệm như vậy , song công cuộc của ông không thu được kết quả. Mặc dầu vậy , các nhà bác học vẫn quyết định đặt tên cho kim loại “bất trị” này: lúc đầu , Becxêliut gọi nó là alumium , và về sau , Đêvi đã đổi alumium thành aluminium ( nhôm ).



Nhà bác học người Đan Mạch Hans Khrixtian Ecxtet ( Hans Christian Oersted ) là người đầu tiên chế được nhôm kim loại giống như người thợ vô danh thời cổ La Mã. Năm 1825 , trong một tập san hóa học , ông đã đăng một bài trong đó ông viết rằng , sau những thí nghiệm do ông tiến hành đã thu được “một mẩu kim loại có mầu và ánh kim giông giống thiếc”. Nhưng tạp chí này không lừng danh lắm nên thông báo của Ecxtet hầu như không được giới khoa học chú ý đến. Vả lại , vì mài miệt Học hỏi về điện tử nên chính nhà bác học đã không coi trọng phát minh này của mình.



Hai năm sau , một nhà hóa học Đức trẻ tuổi nhưng đã nổi tiếng , tên là Friđric Vuêle ( Friederich Wohler ) đã đến Côpenhaghen để gặp Ecxtet. Ecxtet cho Vuêle biết là ông không định nối các thí nghiệm điều chế nhôm nữa. Thế là sau khi phản hồi nước Đức , Vuêle đã lao ngay vào nghiên cứu vấn đề này - một vấn đề mà ông quan hoài từ lâu. Chỉ đến cuối năm 1827 , ông đã ban bố thủ pháp pha chế kim khí mới này của mình. Việc có xảy ra thì biện pháp của Vuêle chỉ cho phép tách được nhôm ở dạng hạt có độ lớn không bằng đầu kim băng , nhưng nhà bác học đã tiếp làm thực nghiệm cho đến khi hoàn chỉnh các biện pháp điều chế nhôm ở dạng khối đặc. Ông phải mất ... mười tám năm vào việc đó.



Thời bấy chừ , kim khí mới này đã có danh tiếng ngay. Nhưng vì người ta chỉ thu được nó với lượng rất ít ỏi nên giá của nó cao hơn giá vàng và tìm mua được nó không phải đơn giản.



bởi thế , cũng rành mạch rằng , khi một vị quốc vương ở châu Âu đã sắm riêng được cho mình một bộ hoàng bào đính cúc nhôm thì ông ta liền lên mặt với các vua chúa khác mà món xa xỉ như vậy không hợp với túi tiền của họ. Các vua chúa kia chẳng còn cách nào khác ngoài ghen tức với người có diễm phúc được làm chủ bộ cúc quý hiếm đó và đành thầm lặng buồn bã chờ đến một ngày thuận hoà hơn.



Chẳng phải chờ đợi lâu , niềm vui lớn đã đến với họ: năm 1855 , tại cuộc Cuộc trưng bày quốc tế ở Pari , người ta đã chưng bày "bạc lấy từ đất sét" làm kinh động dư luận. Đó là những tấm và thỏi nhôm do nhà bác học kiêm nhà Công lao người Pháp Hăngri Etien Xanh -Cle Đêvi ( Henri Etienne Sainte Claire Deville ) chế tạo ra.



Trước khi hiện ra những vật trưng bày đó , một đôi sự kiện sau đây đã xảy ra. Mãn ấy , Napôleon III - “đứa cháu bé tí của ông bác vĩ đại” - như những người đương thời thường gọi , là hoàng đế nước Pháp. Vốn là một kẻ thích chọc tức người khác , có một lần , ông ta mở một bữa tiệc , tại đó , những người trong họ hàng nhà vua và những vị khách vinh hạnh nhất được dùng thìa và dĩa bằng nhôm. Còn những khách khác thì buộc phải sử dụng những dụng cụ ẩm thực thường nhật ( song vẫn là những thứ dùng cho các bữa tiệc của hoàng đế ) bằng vàng và bạc. Cố nhiên là họ uất ức đến phát khóc lên và không tài nào nuốt nổi , nhưng biết mần răng được khi ngay cả hoàng đế lúc đó cũng chẳng thể sắm đủ cho mỗi vị khách một bộ đồ bằng nhôm theo đề nghị. Và khi mà số phận ban cho ông ta một vị con trai vua để nối dõi thì người cha đầy diễm phúc đã ra lệnh cho người thợ bạc trong cung đình làm một bộ đồ chơi xa xỉ bằng nhôm , vàng và các thứ đá quý.



sau thời gian ấy ít lâu , trong óc của Napôleon III đã chín muồi một dự án trêu tức , hứa hẹn một niềm vẻ vang và hãnh diện , nhưng điều chính yếu là làm cho các vua chúa khác phải xanh mắt vì ghen tị: hoàng đế đã quyết định trang bị cho quân lính trong quân đội của mình những bộ áo giáp bằng nhôm. Ông ta dành cho Xanh - Cle Đêvin một Bớt đi lớn để ông này tìm cách chế được nhôm với số lượng lớn. Lấy thủ pháp của Vuêle làm cơ sở cho những thực nghiệm của mình , Xanh - Cle Đêvin đã đề ra một quy trình công nghệ phù hợp , nhưng kim khí của ông làm ra vẫn rất đắt. Chính do vậy nên quân lính Pháp vẫn chưa được ướm thử những bộ áo giáp như vua chúa đã hứa hẹn , trong lúc đó thì nhà vua lại rất quan tâm đến việc hộ vệ bản thân mình: vệ sĩ của ông đã được trưng diện những bộ áo giáp mới tinh.



bè phái Bônapac định lợi dụng việc Xanh - Cle Đêvin pha chế được nhôm nguyên chất để nhen nhóm lên ngọn lửa dân tộc chủ nghĩa: ở khắp mọi nơi , ngươi ta kêu gào về chủ quyền của nước Pháp trong việc phát hiện ra kim khí này. Đáng kính thay Xanh - Cle Đêvin , ông đã phản đối những lời “thổi phồng” này bằng một Bắt đầu làm thích hợp với một nhà bác học đích thực , đồng thời cũng rất độc đáo: ông đã dùng nhôm do chính mình làm ra ra để khắc một tấm huy chương mang chân dung Friđric Vuêle , đề năm “1827” , rồi gửi tặng nhà bác học Đức.



Chính ở thời kỳ này cũng đã Lộ rõ ra “bạc Đêvin” với tư cách là vật trưng bày trong triển lãm quốc tế. Có xác xuất , những người tổ chức cuộc triển lãm đã liệt nhôm vào hàng những kim khí thông dụng , nhưng tiếc thay nó vẫn chưa đạt tới điều đó. Thật ra , ngay từ thời lúc này , những người tiền tiến đã hiểu được rằng , khuy áo và áo giáp chỉ là những tình tiết nhỏ nhoi trong đời hoạt động của nhôm. Lần đi hàng đầu nhìn thấy những sản phẩm bằng nhôm , N. G. Checnưsepxki đã phấn khởi thốt lên: “kim loại này một mực sẽ có một tương lai to lớn. Hỡi các bạn , trước mắt các bạn là thứ kim khí của chủ nghĩa xã hội”. Trong tiểu thuyết “Làm gì” của ông xuất bản năm 1863 có những dòng như sau: “...Nghệ thuật cấu trúc của ngôi nhà bên trong này thanh tú biết chừng nào , những bức tường giữa các cửa sổ gọn nhẹ làm sao. Các ô cửa sổ thì to lớn , Đường bằng phẳng , choán hết cả chiều cao tầng nhà... Còn sàn và trần nhà thì thế nào? Các cửa lớn và khung cửa sổ kia làm bằng gì? Đó là cái gì vậy? Bạc chăng? pla-tin ư?...Ô , bây chừ tôi mới biết , Xasa chỉ cho tôi một tấm bảng nhẹ như tấm kính , lại có cả hoa tai và trâm cài đầu như vậy nữa; phải , Xasa nói rằng , sớm hay muộn rồi nhôm cũng thay thế gỗ , và có thể còn thay thế cả đá nữa. Nhưng sao lại dồi dào thế. Nơi chốn nào cũng là nhôm... Và đây , trong phòng này nữa , một nửa sàn để ngỏ , và thế là rõ rồi , nó làm bằng nhôm...”



Nhưng trong khi những dòng tiên tri này được Ghi chép thì nhôm chủ yếu vẫn là thứ kim loại Trang điểm như trước. Một điều thú vị là năm 1889 , khi Menđelêep ở Luân Đôn , để tỏ ý dấn công phu xuất sắc của ông trong sự nghiệp phát triển ngành hóa học , người ta đã tặng ông một món quà quý: một chiếc cân làm bằng vàng và nhôm.

Xanh - Cle Đêvin đã khai triển hoạt động Dữ dội. Tại thị trấn La Glaxie , ông đã xây dựng nhà máy luyện nhôm hàng đầu trên thế giới. Nhưng trong quá trình nấu luyện , nhà máy đã thải ra nhiều khí có hại , làm ô nhiễm bầu không khí của La Glaxie. Những người dân xứ sở vốn coi trọng sức khỏe của mình và không muốn hy sinh sức khỏe vì sự tiến bộ kỹ thuật nên đã khiếu nại lên chính phủ. Nhà máy đành phải chuyển đi nơi khác , lúc đầu , ra ngoại ô Pari , sau thời gian ấy đến miền nam nước Pháp.



Song đến lúc này , nhiều nhà bác học đã thấy rằng , mặc cho tất cả các cố gắng của Xanh - Cle Đêvin , thủ pháp của ông cũng không có triển vọng. Các nhà hóa học ở các nước khác vẫn nối tiếp tìm tòi. Năm 1865 , nhà bác học Nga là N. N. Bekêtop đã đề xuất một thủ pháp rất thú vị. Thủ pháp này đã mau chóng được ứng dụng tại các nhà máy luyện nhôm ở các nước Pháp và ở Đức.



Năm 1886 đã trở thành một cái mốc quan yếu trong lịch sử của nhôm , khi mà nhà bác học Mỹ là Saclơ Martin Hôn ( Charles Martin Hall ) và nhà bác học Pháp là Pôn Lui Tuxtanh Eru ( Paul Louis Toussaint Heroult ) một cách độc lập nhau đã hoàn thiện biện pháp điện phân để sản xuất kim loại này ( Trong lịch sử khoa học và kỹ thuật có không ít những trường hợp mà hai nhà bác học trong cùng một năm đã đi đến những kết luận hoặc những phát minh như nhau. Sự trùng nhau này càng “chống chất” thêm bởi cả Hôn và Eru đều sinh năm 1863 và như thể đã định ước với nhau , cả hai nhà phát minh này đều mất năm 1914 ). Ý tưởng này không phải là mới: ngay từ năm 1854 , nhà bác học người Đức là Bunzen đã phát biểu ý nghĩ về việc pha chế nhôm bằng cách điện phân các muối của nó. Nhưng phải mất hơn ba mươi năm , ý định này mới được thực hành. Do phương pháp điện phân đòi hỏi nhiều năng lượng , nên nhà máy đầu tiên làm ra nhôm bằng biện pháp này ở châu Âu đã được xây dựng ở Neyhazen ( Thụy Sĩ ) , gần thác nước sông Ranh - một nguồn điện rẻ tiền.



hiện nay , sau hơn một trăm năm , chúng ta không thể tưởng tượng được việc làm ra nhôm mà không dùng biện pháp điện phân. Chính điều đó đã giúp các nhà bác học phải vắt óc suy nghĩ về một việc có xảy ra đầy bí mật như sau. Ở Trung Quốc có ngôi mộ của đại đô đốc danh tiếng là ngao du , chết hồi đầu thế kỷ thứ III. Cách đây không lâu , một số họa tiết trang trí ngôi mộ đã được phân tách bằng quang phổ. Kết quả thật bất ngờ đến nỗi phải phân tách đi phân tách lại nhiều lần , và mỗi lần như vậy , vạch kính quang phổ không thiên vị ai đã chứng tỏ hùng hồn rằng , thứ hợp kim mà những người thợ xa xưa đã dùng làm họa tiết trang hoàng chứa tới 85% nhôm. Vậy bằng cách nào mà ngay từ thế kỷ thứ III người ta đã điều chế được kim loại này? Thời lúc này , con người biết đến điện họa chăng chỉ là qua sấm sét , mà chắc gì sấm sét thì chắc gì đã cùng quan điểm hoặc suy nghĩ với ai đó dự khán vào quá trình điện phân. Thế nghĩa là vẫn phải giả thiết rằng , từ thời xa xưa ấy đã có một phương pháp khác gì đó để pha chế nhôm , nhưng tiếc thay đã bị thất truyền hàng bao thế kỷ.



Cuối thế kỷ XIX , ngành sản xuất nhôm đã trưởng thành vượt cấp , Cuối cùng là giá kim lo?i này giảm xuống rõ rệt và nó không còn được coi là thứ kim loại quý nữa. Hẳn nhiên , đối với những người thợ bạc thì chẳng có gì đáng quan tâm nữa , nhưng lập tức nó thu được sự để ý của giới Công lao mà bấy chừ đang đứng ở ngưỡng cửa của những sự kiện lớn: ngành chế tác máy bắt đầu phát triển Dữ dội , ngành công nghiệp ôtô đã đứng vững , ngành cơ giới đang đi những bước đi hàng đầu mà trong đó nhôm đóng vai trò quan yếu nhất.

================================================== =============================